XtGem Forum catalog
CHATTHUGIAN.MOBIE.IN
kính chào qúy khách

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Tử Vi   Truyện Tranh  
Facebook  Xổ Số  Dịch  Tải Game  Báo  Tiền Ảo Bitcoin 

  Những đứa con của nửa đêm


Phan_44

Đây có phải là ý tưởng của Sam? Thậm chí của Indira? - Né tránh những câu hỏi vô ích này, tôi chỉ ghi nhận rằng cuộc hành quân của Ấn Độ vào Dacca vượt xa một cuộc diễu binh thuần túy; để xứng đáng với một chiến thắng, nó được tô điểm bằng những màn tạp kỹ. Một chiếc quân vận cơ đặc biệt của I.A.F. đã bay tới Dacca mang theo một trăm lẻ một nghệ nhân tạp kỹ và thuật sĩ xuất sắc nhất mà Ấn Độ có thể sản sinh ra. Từ ghetto lừng danh của giới ảo thuật Delhi họ đã đến đây, nhiều người, nhân dịp này, đã khoác lên bộ đồng phục có sức gợi mạnh mẽ của các fauj Ấn Độ, khiến nhiểu người dân Dacca nảy sinh suy nghĩ thắng lợi của Ấn Độ từ đầu đã là tất yếu, bởi ngay các jawan mặc đồng phục của họ cũng là các pháp sư cao tay ấn nhất. Các nhà ảo thuật và các nghệ nhân khác diễu hành cạnh đoàn quân, mua vui cho đám đông; có các diễn viên nhào lộn xếp hình kim tự tháp trên những cỗ xe do bò thiến trắng kéo; những nữ nghệ sĩ uốn dẻo phi thường có thể nuốt chân mình đến tận đầu gối; những nghệ sĩ tung hứng biểu diễn vượt khỏi quy luật của trọng lực, khiến đám đông phấn khích mắt chữ o mồm chữ a khi họ tung hứng lựu đạn đồ chơi, và giữ bốn trăm hai mươi quả trên không cùng lúc; những tay thần bài có thể rút quân bài nữ hoàng của chiriya (chúa tể của muôn chim, vương hậu của chất nhép[4]) ra từ sau tai phụ nữ; có vũ công lừng danh Anarkali, cái tên nghĩa là “hoa lựu”, biểu diễn những màn bật nhảy uốn éo xoay vòng trên cỗ xe lừa với chiếc khuyên bạc khổng lồ, kêu leng keng trên lỗ mũi bên phải; có Đại sư Vikram, nghệ nhân sitar, cây đàn có quyền năng hưởng ứng và phóng đại những cảm xúc mơ hồ nhất trong tim khán giả, đến nỗi có lần (người ta đồn thế) ông từng chơi đàn trước một nhóm khán giả đang rất bực bội, và đã kích thích tâm trạng ức chế ở họ mãnh liệt đến nỗi, nếu người chơi tabla[5] không ngăn khúc raga của ông lại giữa chừng thì súc mạnh từ tiếng đàn của ông hẳn đã xui khiến tất cả rút dao đâm nhau và phá sập cả khán phòng... hôm nay, tiếng đàn của Đại sư Vikram đã khơi dậy niềm hoan hỉ ăn mừng của người dân tới đỉnh điểm; nó làm tim họ, ta hãy nói rằng, mê cuồng một nỗi hân hoan.

[4] Ở đây tức là con Q nhép. Ở miền Bắc Ấn Độ, chất nhép tượng trưng cho loài chim (chiriya).

[5] Một loại trống nhỏ trong âm nhạc dân gian Ấn Độ.

Và có cả Picture Singh bằng xương bằng thịt, một người khổng lồ cao trên hai mét và nặng một tạ, nổi tiếng là Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian nhờ thuật mê hoặc rắn độc nhất vô nhị. Tài năng của anh ngay cả những tubriwaliah huyền thoại của Bengal cũng không thể vượt qua; anh sải bước, giữa đám đông đang rú lên hớn hở, từ đầu đến chân quấn đầy rắn hổ mang, rắn lục, rắn cạp nong chết người, tất cả vẫn còn nguyên túi nọc... Picture Singh, nhân vật sau cùng trong danh sách những người sẵn lòng trở thành cha tôi... và đi ngay sau anh là Parvati-phù-thủy.

Parvati-phù-thùy mua vui cho đáp đông với đạo cụ là một cái giỏ lớn có nắp, đan bằng liễu gai; những khán giả tình nguyện hớn hở chui vào giỏ, và Parvati làm họ biến mất triệt để đến nỗi họ chỉ có thể quay lại khi cô muốn; Parvati, người được nửa đêm ban tặng ma thuật chân chính, đã sử dụng nó để phục vụ cái nghề nghiệp tầm thường của một ảo thuật gia; đâm ra ai cũng hỏi cô, “Mà em làm thế nào vậy?” Và, “Thôi nào, cô em xinh đẹp, tiết lộ đi, việc gì mà ngại?” - Parvati, tươi cười rạng rỡ lăn lăn cái giỏ ma thuật của cô, tiến về phía tôi cùng đoàn quân giải phóng.

Quân đội Ấn Độ tiến vào thị trấn, những người hùng cùa nó theo chân các ảo thuật gia; trong số đó, về sau tôi được biết, có cả gã chiến thần nọ, tên Thiếu tá mặt chuột với cặp đầu gối sát thủ... nhưng lúc này các ảo thuật gia xuất hiện ngày một nhiều, bởi những thuật sĩ sống sót của thành phố đã chui ra từ chỗ trốn, và bắt đầu một cuộc đua tài tuyệt vời, tìm cách vượt mặt mỗi và mọi màn biểu diễn của các ảo thuật gia phương xa; nỗi đau của thành phố được gột rửa và nguôi ngoai dưới trận phun trào tươi tắn của ma thuật mà họ đem lại. Thế rồi Parvati-phù-thủy nhìn thấy tôi, và trả lại tên cho tôi.

“Saleem! Ôi trời ơi Saleem, Saleem Sinai, có phải cậu không Saleem?”

Buddha giật mình, ngơ ngác như con rối. Mắt đám đông nhìn chòng chọc. Parvati sấn lại gần gã. “Này, đích thị là cậu rồi!” Đôi mắt tròn xoe tìm kiếm trong vùng xanh mờ đục. “Lạy Chúa, cái mũi này, tớ không có ý gì đâu, nhưng đích thị rồi! Này, tớ đây, Parvati đây! Ôi Saleem, đừng có ngớ ra thế, coi nào coi nào...!”

“Đúng rồi,” buddha nói. “Saleem: đúng rồi.”

“Ôi Chúa ơi, vui quá là vui!” cô kêu lên, “Arre baap, Saleem, cậu nhớ không - Lũ Trẻ, yaar, Ôi, hay quá đi mất! Mà sao mặt cậu nghiêm trọng thế, trong khi tớ chỉ muốn ôm cậu đến vỡ vụn ra? Bao nhiêu năm tớ chỉ nhìn thấy cậu ở đây,” cô gõ vào trán, “và giờ cậu đứng đây, mặt nghệt ra như cá. Nào, Saleem! Coi kìa, ít nhất cũng chào nhau một câu chứ.”

Ngày 15 tháng Mười hai năm 1971, Tiger Niazi đầu hàng Sam Manekshaw; con Cọp với chín mươi ba nghìn quân Pakistan trở thành tù binh chiến tranh. Tôi, trong khi đó, trở thành tù nhân tự nguyện của các ảo thuật gia Ấn Độ, bởi Parvati đã lôi tuột tôi vào đoàn diễu hành và bảo, “Giờ đã tìm thấy đây rồi thì đừng hòng tớ thả cậu đi.”

Đêm đó, Sam và con Cọp uống bằng chota-peg[6] và hồi tưởng về thời trong Quân đội Anh. “Nói thật, Cọp ạ,” Sam Mankeshaw nói, “ông đầu hàng như thế rất có phong độ.” Và con Cọp, “Sam, ông đánh một trận ác chiến đấy.” Một vầng mây nhỏ lướt qua gương mặt của Tướng Sam, “Nghe này, chiến hữu: có những lời đơm đặt khủng khiếp. Về thảm sát, ông bạn ạ, mộ tập thể, các biệt đội tên là CUTIA hay quái quỷ gì đó, được đào tạo nhằm mục đích nhổ tận gốc những phần tử đối lập... chuyện này không có thật chứ hả?” Và con Cọp, “Biệt đội Liệp Khuyển chuyên Săn lùng và Hoạt động tình báo? Chưa nghe bao giờ; ông bị lỡm rồi, ông bạn già. Tình báo hai bên làm ăn lởm quá. Không, lố bịch, lố bịch hết sức, nói ông bỏ quá!” “Đây cũng nghĩ thế,” Tướng Sam đáp, “tôi nói, Cọp ạ, gặp lại ông quá hay, lão quỷ già!” Và con Cọp “Bao nhiêu năm rồi, nhỉ, Sam? Lâu lắm rồi.”

[6] Một loại ly nhỏ để uống rượu, đặc trưng ở Ấn Độ thời kỳ thuộc địa.

“... Trong khi những người bạn cũ hát “Auld Lang Syne” trong nhà ăn của sĩ quan, tôi thực hiện cuộc đào tẩu khỏi Bangladesh, khỏi những năm tháng Pakistan của tôi. “Tớ sẽ giúp cậu trốn,” Parvati bảo sau khi tôi giải thích. “Cậu muốn cực kỳ bí mật hả?’

Tôi gật đầu. “Cực kỳ bí mật."

Đâu đó trong thành phố, chín mươi ba nghìn lính Pakistan đang chuẩn bị lên xe đến trại P.O.W.[7]; nhưng Parati-phù-thủy bắt tôi trèo vào một cái giỏ liễu gai có nắp đậy khít. Sam Manekshaw buộc phải ra lệnh quản thúc bảo vệ đối với con Cọp; nhưng Parvati-phù-thủy trấn an tôi, “Thế này họ sẽ không đời nào tóm được cậu.”

[7] Prisoners of War (tù binh chiến tranh).

Đằng sau một trại lính, nơi các ảo thuật gia đang chờ lên máy bay để quay về Delhi, Picture Singh, Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian, đứng cảnh giới cho tôi, tối hôm đó, trèo vào chiếc giỏ tàng hình. Chúng tôi đứng tha thẩn, hút biris, và đợi đến khi không thấy bóng người lính nào, trong khi Picture Singh kể tôi nghe về tên mình. Hai mươi năm trước, một nhiếp ảnh gia của Eastman-Kodak đã chụp ảnh anh – bức ảnh, ngập trong nụ cười và bầy rắn, về sau đã xuất hiện trên phân nửa số áp phích quảng cáo và quầy trưng bày của Kodak tại Ấn Độ; kể từ đó, người dụ rắn đã lấy cái biệt danh hiện tại. “Chú nghĩ sao hỉ, đội trưởng?” anh gầm gừ thân thiện. “Tên hay đấy chứ, hỉ? Biết làm sao, đội trưởng, anh chịu chả nhớ nổi cái tên cũ, hồi xưa, tên cha mẹ đặt cho ấy! Đần hỉ, đội trưởng?” Nhưng Picture Singh không đần; và tài mê hoặc mới chỉ là một phần nhỏ ở anh. Bỗng nhiên, vẻ thân thiện ngái ngủ, suồng sã trong giọng anh biến mất; anh thì thầm, “Mau! Mau, đội trưởng, ek dum, cực nhanh đi!” Parvati nhấc nắp ra; tôi cắm đầu lao vào cái giỏ bí hiểm của cô. Cái nắp đậy xuống, che khuất nốt chút ánh sáng cuối ngày.

Picture Singh thì thầm, “Ô kê, đội trưởng - ngon rồi!” Parvati cúi xuống gần tôi; môi cô hẳn là áp sát mặt ngoài cái giỏ. Những gì Parvati-phù-thủy thì thào qua lớp liễu gai:

“Này, Saleem: nghĩ mà xem, anh bạn! Cậu và tớ - những đứa con của nửa đêm, yaar! Oách đấy chứ, hả?”

Oách đấy chứ... Saleem, bị bao trùm trong bóng tối của liễu gai, hồi tưởng về những nửa đêm của nhiều năm trước, về những cuộc vật lộn tuổi thơ với mục đích và ý nghĩa; lòng tràn ngập nỗi hoài nhớ, tôi vẫn không thể cắt nghĩa nổi cái oách ấy là gì. Rồi Parvati lầm rầm gì đó, và, bên trong chiếc giỏ tàng hình, tôi, Saleem Sinai, cùng tấm áo choàng vô danh lùng thùng, biến mất vào hư không.

“Biến mất? Biến mất thế nào, biến mất là sao?” đầu Padma giật nảy lên; mắt Padma ngơ ngác nhìn tôi chằm chằm. Tôi, nhún vai, thản nhiên nhắc lại: Biến mất, thế thôi. Tan biến. Tiêu biến. Như yêu tinh ấy: bụp, xong.

“Thế,” Padma cật vấn tôi, “cô ấy đích thực quả thật là phù thủy à?”

Đích thực quả thật. Tôi ở trong giỏ, nhưng cũng không ở trong giỏ; Picture Singh nhấc nó lên bằng một tay và tống nó lên thùng chiếc xe tải Quân đội chở anh và Parvati và chín mươi chín người khác ra chiếc chuyên cơ đang chờ ngoài sân bay quân sự; tôi bị ném lên cùng cái giỏ, nhưng cũng không bị ném lên. Về sau, Picture nói, “Không, đội trưởng, anh không cảm thấy sức nặng của chú”; trong khi tôi cũng chẳng cảm thấy chút thịch uỵch bịch nào. Một trăm lẻ một nghệ sĩ đã đến đây, bằng quân vận cơ của I.A.F., từ thủ đô của Ấn Độ; một trăm lẻ hai người trở lại, mặc dầu một người trong số họ vừa ở đó vừa không ở đó. Phải, thần chú thỉnh thoảng cũng linh nghiệm. Nhưng cũng có khi không: cha tôi, Ahmed Sinai, chưa một lần thành công trong việc nguyền rủa Sherri, con chó cái lai.

Không hộ chiếu hay giấy phép, tôi quay lại, dưới tấm áo choàng tàng hình, xứ sở nơi tôi sinh ra; tin hay không tùy quý vị, nhưng ngay cả một người hoài nghi cũng sẽ phải đưa ra một cách giải thích khác cho việc tôi có mặt tại đây. Chẳng phải Caliph Haroun al-Rashid (ở một thiên truyền kỳ ra đời sớm hơn) cũng đã từng lang thang, vô danh vô hình vô tướng, khắp phố phường Baghdad trong lớp áo choàng? Điếu Haroun làm được trên phố phường Baghdad, Parvati-phù-thủy đã biến thành hiện thực với tôi khi chúng tôi bay xuyên những tuyến hàng không của tiểu lục địa. Cô đã làm được; tôi trở nên vô hình; bas. Chấm hết.

Hồi ức về sự vô hình: ở trong giỏ, tôi được biết cảm giác chết là như thế nào, sẽ như thế nào. Tôi có được đặc tính của một bóng ma! Tồn tại, nhưng phi vật chất; hiện hữu, nhưng không có thực thể và trọng lượng... tôi khám phá ra, từ trong giỏ, cách hồn ma nhìn thế giới. Mập mờ nhòa nhạt mơ hồ... nó tổn tại quanh tôi, nhưng chỉ hơi thôi; tôi lơ lửng trong khối cầu của không-hiện-diện, và tại rìa của nó, tôi có thể thấy, như những hình ảnh phản chiếu mờ mờ, bóng ma của lớp liễu gai. Người chết chết đi, và dần bị lãng quên, thời gian hàn gắn vết thương, và họ nhạt nhòa đi - nhưng trong cái giỏ của Parvati tôi nhận ra rằng điều ngược lại cũng đúng; rằng cả hồn ma cũng bắt đầu quên; rằng người chết cũng mất dần hồi ức về người sống, và sau cùng, sau khi bị tách khỏi sự sống, họ mờ nhạt đi – rằng sự chết, nói tóm lại, vẫn tiếp diễn một thời gian dài sau cái chết. Sau này, Parvati bảo, “Tớ không muốn nói với cậu - không ai nên tàng hình lâu như thế - nguy hiểm lắm, nhưng biết làm thế nào được?”

Dưới pháp thuật của Parvati, tôi cảm thấy thế giới trôi tuột khỏi sự nắm bắt của bản thân - và thật dễ dàng, thật bình yên biết mấy, nếu không bao giờ phải trở lại! – nếu có thể trôi nổi giữa vùng mây mù vô định ấy, phiêu dạt xa hơn xa nữa xa mãi, như một bào tử bị gió thổi bay - tóm lại, tôi đứng giữa sự sống và cái chết.

Thứ mà tôi bấu víu vào trong không-gian-và-thời-gian ma mị ấy: cái ống nhổ bằng bạc. Thứ, cũng trở thành vô hình như tôi dưới lời thì thầm của Parvati, nhưng vẫn cảnh tỉnh tôi về thế giới bên ngoài... siết chặt món đồ bạc được gò tinh xảo ấy, thứ vẫn lấp lấnh kể cả trong bóng tối không tên, tôi sống sót. Bất chấp sự tê liệt từ-đầu-đến-chân, tôi được cứu thoát, có lẽ, nhờ ánh lấp lánh phát ra từ kỷ vật quý giá của tôi.

Không - không thuần túy là nhờ ống nhổ; vì, như chúng ta đều đã biết, nhân vật chính của chúng ta chịu ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc của việc bị giam hãm trong không gian hẹp. Mọi biến đổi đều xảy ra với gã trong bóng tối khép kín. Từ chỗ chỉ là phôi trong không gian bí mật của tử cung (không phải của mẹ gã), chẳng phải gã đã lớn lên thành hiện thân của truyền thuyết mới về ngày 15 tháng Tám, thành đứa trẻ của tiếng tích tắc - chẳng phải gã đã xuất hiện như một Mubarak, Đứa Trẻ được Ban Phước? Trong một phòng tắm chật chội, chẳng phải hai thẻ tên đã bị tráo? Một mình trong chiếc tủ giặt với sợi dải rút thọt lên mũi, gã chẳng phải đã liếc thấy một Trái Xoài Đen và khịt quá mạnh, biến bản thân và quả dưa chuột trên mặt gã thành một đài phát thanh nghiệp dư siêu nhiên? Bị bác sĩ, y tá và mặt nạ gây mê giữ chặt, chẳng phải gã đã đầu hàng những con số và, sau khi bị hút-kiệt-ở-trên, chuyển sang giai đoạn hai, thời kỳ của triết gia khứu giác và (sau này) cao thủ săn lùng? Bị đè bẹp, trong ngôi nhà bỏ hoang, dưới cái xác của Ayooba Baloch, chẳng phải gã đã nhận thức được ý nghĩa của công-bằng-và-bất-công? À, thế thì - bị giam hãm trong sự nguy hiểm của chiếc giỏ vô hình, tôi được cứu thoát, không chỉ bởi ánh lấp lánh của cái ống nhổ, mà còn nhờ một sự biến đổi khác: trong vòng cương tỏa của nỗi cô đơn thoát ly thể xác kinh khủng ấy, một nỗi cô đơn có mùi nghĩa địa, tôi khám phá ra giận dữ.

Bên trong Saleem, có gì đó đang phai nhạt và có gì đó đang ra đời. Phai nhạt: niềm tự hào cũ vế tấm-hình-em-bé và lá thư lồng khung kính của Nehru; quyết tâm cũ sẵn sàng nhận lãnh một vai trò lịch sử đã được tiên đoán; và sự sẵn lòng tha thứ, sẵn lòng thông cảm cho việc cha mẹ hay người lạ có quyền lưu đày hay khinh bỉ gã chỉ vì gã xấu; ngón tay cụt và đầu sư cọ xem ra không còn là những lý do đủ thuyết phục cho cách mọi người đối xử với gã, với tôi. Đối tượng của sự phẫn nộ trong tôi, trên thực tế, là tất cả những gì tôi đã, cho tới lúc đó, chấp nhận một cách mù quáng: việc cha mẹ mong mỏi tôi sẽ đền đáp sự đầu tư của họ vào tôi, bằng cách trở nên vĩ đại; thiên-tài-rủ-xuống-tựa-khăn-san; và chính các chế độ liên kết đã khơi dậy trong tôi một cơn giận đột ngột, mù quáng. Sao lại là tôi? Tại sao, vì những sự ngẫu nhiên của lời tiên đoán lúc chào đời và vân vân, tôi lại phải chịu trách nhiệm về những vụ bạo loạn ngôn ngữ và người-kế- tục-Nehru, về cách mạng của lọ gia vị, và về những quả bom đã tiêu diệt gia đình tôi? Tại sao, tôi, Saleem Thò Lò, Cả Khịt, Mặt Bản Đồ, Mảnh Trăng, lại bị quy kết về những gì quân lính Pakistan không-gây-ra tại Dacca?... Tại sao, duy nhất trong tất cả hơn-năm-trăm-triệu-con-người, mình tôi phải mang gánh nặng của lịch sử?

Cảm xúc được khám phá của tôi về sự bất công (có mùi hành) đã khởi đầu, cơn giận vô hình của tôi đã hoàn thiện. Phẫn nộ giúp tôi sống sót trước sự quyến rũ êm ái mê mị của sự tàng hình; giận dữ làm tôi quyết tâm (sau khi được giải phóng khỏi tình trạng tiêu biến, dưới bóng một Thánh đường Thứ Sáu) bắt đầu, kể từ giây phút ấy, tự chọn cho mình một tương lai riêng, phi-tiền-định. Và ở đó, trong sự tĩnh lặng của cảm giác biệt lập sực mùi nghĩa địa, tôi nghe thấy giọng hát xa xưa của cô Mary Pereira đồng trinh:

Bất cứ gì con muốn thành, con sễ[8] được,

Con sễ được thành, bất cứ gì con muốn.

[8] Mary phát âm không chuẩn, đọc chữ you can be (con có thể) thành you kin be.

Đêm nay, hồi tưởng về cơn giận cũ, tôi vẫn hoàn toàn bình thản, mụ Góa phụ đã hút kiệt giận dữ khỏi tôi cùng với mọi thứ khác. Nhớ lại cuộc nổi loạn phát sinh trong giỏ, cưỡng lại vận mệnh, tôi thậm chí tự cho phép mình nở một nụ cười giễu cợt, thấu hiểu. “Con trai,” tôi lẩm bẩm một cách độ lượng xuyên qua năm tháng tới Saleem-ở-tuổi-hai-tư, “sẽ mãi là con trai.” Tại Quán trọ Góa phụ, tôi đã nhận được bài học khắc nghiệt và nhớ đời của sự Không Thể Thoát; giờ đây, gò lưng trên giấy dưới quầng sáng Anglepoise, tôi không còn muốn là gì khác ngoài chính bản thân mình. Tôi là ai, cái gì? Trả lời: tôi là tổng hợp mọi thứ diễn ra trước tôi, mọi thứ tôi đã là đã thấy đã làm, mọi thứ được-làm-với-tôi. Tôi là tất cả mọi người mọi vật mà sự-tồn-tại-trên-thế-giới-này tác động đến tôi bị tôi tác động, tôi là bất kỳ thứ gì xảy ra sau khi tôi ra đi nhưng sẽ không xảy ra nếu tôi không xuất hiện. Tôi cũng không phải là ngoại lệ cá biệt trong vấn đề này; mỗi một “Tôi”, mỗi cá nhân trong số này-là-hơn-sáu-trăm-triệu-con-người chúng ta, đều chứa đựng một sự đa dạng tương tự. Tôi nhắc lại lần cuối: để hiểu tôi, quý vị sẽ phải nuốt cả thế giới.

Mặc dù lúc này, khi quá-trình-trào-ra của những-gì-ở-trong-tôi đã gần tới hồi kết; khi những vết nứt đang toác ra từ bên trong - tôi có thể nghe và cảm thấy tiếng nhay xé gặm - tôi bắt đầu mỏng dần đi, gần như trong mờ; chẳng còn bao nhiêu tôi nữa, và không bao lâu nữa sẽ chẳng còn gì. Sáu trăm triệu hạt bụi, tất cả trong suốt, vô hình như thủy tinh...

Nhưng lúc ấy tôi rất giận dữ. Hiện tượng cường vận động nội tiết trong cái bình liễu gai hai quai: mồ hôi và mùi hôi trào ra từ tuyến eccrine và apocrine, như thể tôi đang cố gắng bài tiết số phận qua các lỗ chân lông; và, để công bằng với cơn phẫn nộ của mình, tôi phải ghi nhận rằng, nó đã giành được một thành tựu tức thời - rằng khi từ giỏ tàng hình lăn ra dưới bóng thánh đường, tôi đã được, nhờ có cuộc nổi dậy, giải thoát khỏi tình trạng trầm mê của sự tê liệt; khi bổ nhào xuống nền đất khu ghetto của giới ảo thuật, tay khư khư cái ống nhổ bạc, tôi nhận ra mình đã bắt đầu, một lần nữa, có cảm giác.

Có những nỗi đau, ít ra, vẫn có khả năng bị chế ngự.

Chương 27: Dưới bóng Thánh đường

Không nghi ngờ gì nữa: đang có một sự tăng tốc. Rắc roạc rộp - trong khi mặt đường nứt toác dưới cái nóng ghê người, tôi cũng đang bị đẩy nhanh tới chỗ tan rã. Thứ-gặm-mòn-xương (một thứ, như tôi thường xuyên phải giải thích với quá nhiều đàn bà ở quanh mình, vượt xa khả năng nhận biết, chưa nói đến cứu chữa, của các thầy thuốc) sẽ chẳng thể bị kìm hãm bao lâu nữa; mà chuyện chưa kể thì còn quá nhiều... Cậu Mustapha đang lớn dần bên trong tôi, và cái bĩu môi của Parvati-phù-thủy; một lọn tóc của người anh hùng đang chờ đợi sau cánh gà; và một cơn trở dạ kéo dài mười ba ngày, và lịch sử đồng dạng với kiểu tóc của một thủ tướng; sắp có sự phản bội, và trốn vé, và mùi (phảng phất theo những cơn gió trĩu nặng tiếng rên rỉ của những góa phụ) thứ gì đó đang bị rán trên chảo sắt... thế nên, tôi cũng buộc phải tăng tốc, phải bứt phá về đích; trước khi ký ức của tôi vỡ vụn, không mong gì sắp xếp lại được, tôi phải ưỡn ngực chạm đích. (Mặc dù đã có, đã có những chỗ mơ hồ, khiếm khuyết; và đôi khi cần phải ứng tác.)

Hai mươi sáu lọ ngâm ảm đạm xếp hàng trên giá; hai mươi sáu công thức pha trộn đặc biệt, mối lọ có một nhãn định danh riêng, được viết ngay ngắn với những hàng chữ quen thuộc: chẳng hạn “Cuộc Hành Quân Của Lọ Gia Vị”, hay “Alpha và Omega”, hay “Cây dùi cui của Trung tá Sabarmati”. Hai mươi sáu cái lọ lanh canh rất hùng hồn mỗi khi đoàn tàu hỏa vàng-và-nâu chạy qua; trên bàn tôi, năm cái lọ rỗng leng keng đầy khẩn thiết, nhắc nhở tôi về nhiệm vụ chưa hoàn thành. Nhưng giờ tôi không thể lần lữa bên những chiếc lọ rỗng không; đêm là thời khắc của ngôn từ, và chutney xanh phải đợi đến lượt mình.

... Padma tư lự: “Ôi, ông này, Kashmir tháng Tám chắc là đẹp lắm, trong lúc ở đây nóng như thiêu!” Tôi buộc phải quở trách bạn đồng hành phúng-phính-nhưng-cơ-bắp này vì để tâm trí vơ vẩn tận đâu; và buộc phải thừa nhận Padma Bibi của chúng ta, con người nhẫn nại khoan dung khéo vỗ về, bắt đầu cư xử giống một bà vợ Ấn Độ đích thực. (Còn tôi, với nết xa cách và chỉ mải việc mình, giống một ông chồng?) Gần đây, bất chấp thái độ lãnh đạm phó mặc số mệnh của tôi trước các vết nứt đang lan rộng, tôi đã ngửi thấy, trong hơi thở của Padma, giấc mơ về một kịch bản tương lai khác (nhưng bất khả); phớt lờ cái kết cục bất khả tiêu trừ của những rạn nứt trong nội thể tôi, cô bắt đầu tỏa ra mùi hương ngọt đắng của hy-vọng-hôn-nhân. Bông sen-phân của tôi, người lâu nay vẫn vững vàng trước những cái nhếch môi dè bỉu của đội ngũ lao động nữ bắp tay phủ lông tơ; người đã đặt việc chung sống với tôi ra ngoài và lên trên mọi chuẩn mực xã hội, có vẻ đã quy hàng khát vọng được chính danh... tóm lại, dù không đả động gì đến chủ đề này, cô vẫn chờ đợi tôi biến cô thành một người đàn bà đoan chính. Mùi hương hy vọng u sầu ngấm vào những lời lẽ quan hoài vô tư nhất của cô - chậm chí ngay lúc này, khi cô, “Ông này, sao không kết thúc vụ viết lách này rồi nghỉ ngơi; về Kashmir, cho thanh tĩnh một thời gian - và ông có thể đem Padma của ông theo, để cô ta có thể chăm nom...?” Đằng sau giấc mơ chớm nở về kỳ nghỉ Kashmir ấy (cũng từng là giấc mơ của Jehangir, Đại đế Mughal; của Ilse Lubin tội nghiệp bị lãng quên; và có lẽ của chính Jesus Christ), tôi đánh hơi thấy sự hiện diện của một giấc mơ khác; có điều cả hai đều sẽ không thể thành hiện thực. Bởi vì giờ đây những vết nứt, những vết nứt và luôn là những vết nứt, đang thu hẹp tương lai của tôi tới một dấu chấm hết duy nhất và tất yếu; và cả Padma cũng sẽ phải ngồi ghế sau để tôi cố thế kết thúc câu chuyện của mình.

Ngày nay, báo chí đang bàn tán về khả năng tái xuất chính trường của Indira Gandhi; nhưng lúc tôi quay về Ấn Độ, náu mình trong chiếc giỏ liễu gai, “Quý Bà” đang đắm mình trong tột đỉnh vinh quang. Ngày nay, có thể chúng ta đều đã quên, tự nguyện chìm đắm trong vùng mây mù nguy hại của bệnh mất trí nhớ; nhưng tôi vẫn nhớ, và sẽ ghi chép lại, tôi đã - bà ta đã - chuyện đã xảy ra như thế nào mà... - không, tôi không được nói ra, tôi phải kể tất cả theo trình tự, đến khi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiết lộ... Ngày 16 tháng Mười hai năm 1971, tôi bổ nhào ra giữa một đất nước Ấn Độ nơi đảng Tân Quốc đại của bà Gandhi nắm hơn hai phần ba số ghế trong Quốc hội.

Trong chiếc giỏ tàng hình, nhận thức về bất công đã biến thành giận dữ, và một số thứ khác nữa - không chỉ biến đổi vì cơn thịnh nộ, trong tôi còn trào dâng cảm giác đau xót của nỗi cảm thông với một đất nước không chỉ là chị em song sinh mà còn dính liền với tôi (một cách hình tượng) ở hông, khiến điều gì xảy ra với người này, cũng xảy đến với người kia. Nếu tôi, mũi thò lò mặt nhọ vân vân, vì thế mà gặp lắm gian truân, thì em cũng vậy, người em tiểu lục địa sinh đôi của tôi; và giờ đây khi đã tự cho mình quyền lựa chọn một tương lai tốt đẹp hơn, tôi quyết rằng đất nước này phải được chia sẻ điều đó. Tôi nghĩ rằng khi bổ nhào ra giữa bụi bặm, bóng thánh đường và tiếng reo hò thích thú, tôi đã mang sẵn trong lòng một quyết tâm cứu nước.

(Nhưng còn những vết rạn nứt... liệu tôi, khi ấy, đã kịp nhận ra rằng tình yêu tôi dành cho Jamila Ca sĩ đã, theo một nghĩa nào đó, sai lầm? Liệu tôi đã kịp hiểu ra mình đã cứ thế trút lên vai cô sự sùng bái mà giờ đây tôi nhận chức rõ là một tình yêu hướng thượng, quảng đại dành cho đất nước? Tới lúc nào tôi mới nhận ra, rằng những tình cảm loạn luân đích thực của tôi là dành cho người em gái song sinh thật sự, cho chính Ấn Độ, chứ không phải cho ngữ xướng ca vô loài đã nhẫn tâm trút bỏ tôi, như một bộ da rắn dùng rồi, và vứt tôi vào cái thùng rác ẩn dụ là đời lính? Lúc nào lúc nào lúc nào?... Thừa nhận thất bại, tôi buộc phải ghi lại rằng, tôi không thể nhớ chính xác.)

... Saleem ngồi hấp háy mắt giữa đám bụi, dưới bóng một thánh đường. Một người khổng lồ đứng bên gã, cười toét miệng, hỏi, “À há, đội trưởng, chuyến đi ổn hỉ?“ Còn Parvati, mắt mở to đầy phấn khích, rót nước từ chiếc lotah[1] vào đôi môi nứt nẻ mặn chát của gã... Cảm giác! Cái buốt giá của nước giữ lạnh trong surahi[2] bằng đất nung, cái nứt nẻ bỏng rát của đôi môi khô héo, chất bạc và thanh kim thạch siết trong lòng tay... “Tôi cảm thấy rồi!” Saleem reo lên với đám đông thân thiện vây quanh.

[1] Một kiểu ca nước, thường làm bằng đồng

[2] Bình đựng nước cổ cao.

Lúc ấy là thời điểm buổi chiều được gọi là chaya[3], khi bóng của Thánh đường Thứ Sáu cao chót vót bằng gạch đỏ và cẩm thạch vắt ngang những căn lều hỗn loạn của khu ổ chuột chen chúc dưới chân nó, với những mái tôn xiêu vẹo tạo thành một không khí nóng hầm hập, đến mức không thể ở nổi trong những túp lều xập xệ này trừ lúc chaya và ban đêm… nhưng lúc này các nghệ sĩ ảo thuật và uốn dẻo và tung hứng và các fakir đều tập hợp dưới bóng râm quanh cột ống khói khổng lồ đơn độc nọ để chào đón người mới đến. “Tôi cảm thấy rồi!” tôi reo lên, và rồi Picture Singh, “Tốt rồi, đội trưởng - nói xem, chú cảm thấy sao hỉ? - khi được sinh ra lần nữa, như một đứa trẻ sơ sinh, lăn ra từ giỏ của Parvati?” Tôi có thể ngửi thấy mùi kinh ngạc ở Picture Singh; anh rõ ràng là sửng sốt trước xảo thuật của Parvati, có điều, là dân trong nghề thực thụ, anh không tưởng đến chuyện hỏi xem cô làm điều đó như thế nào. Nhờ vậy mà Parvati-phù-thủy, người sử dụng pháp lực vô biên của mình đưa tôi đến nơi an toàn, đã thoát khỏi bị phát hiện; và cũng còn vì, như về sau tôi khám phá ra, ghetto của giới ảo thuật không tin, với sự quả quyết tuyệt đối của những kẻ sống-bằng-nghề-ảo-thuật, sự tồn tại của pháp thuật. Thế nên Picture Singh bảo tôi, với vẻ kinh ngạc, “Anh thề, đội trưởng - ở trong giỏ chú rất nhẹ, như trẻ sơ sinh!” - Nhưng anh không bao giờ hình dung ra được, tình trạng không trọng lượng của tôi tuyệt không hề là xảo thuật.

[3] Nghĩa là bóng râm.


Phan_1
Phan_2
Phan_3
Phan_4
Phan_5
Phan_6
Phan_7
Phan_8
Phan_9
Phan_10
Phan_11
Phan_12
Phan_13
Phan_14
Phan_15
Phan_16
Phan_17
Phan_18
Phan_19
Phan_20
Phan_21
Phan_22
Phan_23
Phan_24
Phan_25
Phan_26
Phan_27
Phan_28
Phan_29
Phan_30
Phan_31
Phan_32
Phan_33
Phan_34
Phan_35
Phan_36
Phan_37
Phan_38
Phan_39
Phan_40
Phan_41
Phan_42
Phan_43
Phan_45
Phan_46
Phan_47
Phan_48
Phan_49
Phan_50
Phan_51
Phan_52
Phan_53 end
Phan_gioi_thieu
Nếu muốn nhận thông tin bài viết mới của trang thì like ở dưới hoặc truy cập trực tiếp CLICK

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Mẹo Hay   Trà Sữa   Truyện Tranh   Room Chat   Ảnh Comment   Gà Cảnh   Hình Nền   Thủ Thuật Facebook  
Facebook  Tiện Ích  Xổ Số  Yahoo  Gmail  Dịch  Tải Opera  Đọc Báo 

Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian

C-STAT .